Phân tích chất lượng nước thải trong ĐTM
Nước thải là nguyên nhân chính gây ra nhiều vấn đề ô nhiễm nước. Hầu hết các thành phố của các nước đang phát triển tạo ra trung bình 30-70 mm3 nước thải mỗi người mỗi năm. Do thiếu hoặc không có các công trình xử lý nước thải không phù hợp, nước thải và các chất thải của nó thường được thải vào nguồn nước mặt, là nơi chứa chất thải sinh hoạt và chất thải công nghiệp, gây ô nhiễm. Chất lượng nước thải kém là nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái của nguồn nước mặt tiếp nhận. Nước thải đầu ra cần được xử lý hiệu quả để ngăn chặn nguy cơ có hại cho sức khỏe của người sử dụng tài nguyên nước mặt và hệ sinh thái thủy sinh. Việc xả nước thải thô và nước thải đã qua xử lý không đúng cách vào các dòng nước có ảnh hưởng cả ngắn hạn và dài hạn đến môi trường và sức khỏe con người. Do đó, cần có sự thực thi thích hợp các luật về nước và môi trường để bảo vệ sức khỏe của cư dân của cả cộng đồng nông thôn và thành thị. Nghiên cứu này báo cáo các yếu tố chính gây ra tình trạng hư hỏng của các cơ sở xử lý nước thải ở các nước đang phát triển, bao gồm tình trạng hoạt động kém của cơ sở hạ tầng nước thải, yếu kém về thiết kế, thiếu chuyên môn, tham nhũng, không đủ kinh phí phân bổ cho xử lý nước thải, công suất quá tải của các cơ sở hiện có và giám sát không hiệu quả để tuân thủ, trong số những người khác.
1. Giới thiệu
Nguồn
nước ngọt là một trong những vấn đề lớn mà thế giới đang phải đối mặt, và
khoảng một phần ba nhu cầu nước uống của thế giới được lấy từ các nguồn bề mặt
như sông, đập, hồ và kênh. Các nguồn nước này cũng là bồn rửa tốt nhất để thải
các chất thải sinh hoạt và công nghiệp. Mối đe dọa lớn nhất đối với nguồn cung
cấp nước bền vững ở Việt Nam là sự ô nhiễm các nguồn nước sẵn có do ô nhiễm.
Nhiều cộng đồng ở Việt Nam vẫn dựa vào nguồn nước chưa được xử lý hoặc xử lý
không đủ từ các nguồn tài nguyên bề mặt như sông và hồ để cung cấp hàng ngày.
Họ không có hoặc hạn chế tiếp cận với các cơ sở vệ sinh đầy đủ và có nguy cơ
cao mắc các bệnh lây truyền qua đường nước. Kể từ năm 2020, đã có sự gia tăng
đáng kể các đợt dịch bệnh qua đường nước ở Việt Nam.
Nước
mặt đã được con người khai thác cho một số mục đích. Nó phục vụ như một nguồn
nước uống sau khi xử lý và là một nguồn nước sinh hoạt không qua xử lý, đặc
biệt là ở các vùng nông thôn ở các nước đang phát triển. Nó đã được sử dụng cho
mục đích tưới tiêu của nông dân, và ngư dân có nghề của họ từ việc thu hoạch cá
ở rất nhiều nguồn nước ngọt. Nó được sử dụng để bơi lội và cũng là trung tâm
thu hút khách du lịch. Do đó, nước mặt cần được bảo vệ khỏi ô nhiễm. Các nguồn
chính gây ô nhiễm nước ngọt là nước thải thô và nước thải đã qua xử lý một
phần. Việc xả nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp đã làm gia tăng ô
nhiễm nguồn nước ngọt và cạn kiệt nguồn nước sạch. Hầu hết lượng nước thải được
tạo ra ở các nước đang phát triển không trải qua bất kỳ hình thức xử lý nào. Ở
một số trung tâm đô thị, nhiều dạng công trình xử lý nước thải tồn tại nhưng
hầu hết chúng đều tạo ra nước thải không được xử lý tốt, được thải vào các dòng
nước ngọt.
Ở
một số nước phát triển trên thế giới, việc cung cấp đủ nước uống và cải thiện
các công trình vệ sinh đã đạt được. Các luật lệ về môi trường và giám sát tuân
thủ nghiêm ngặt nhằm ngăn ngừa ô nhiễm quá mức đối với các nguồn nước ngọt.
Công nghệ quản lý chất thải tốt và nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường đã
đóng góp to lớn vào câu chuyện thành công. Điều này dẫn đến ít trường hợp mắc
các bệnh lây truyền qua đường nước được báo cáo hơn so với các nước đang phát
triển.
Nhiều
người dân ở các nước đang phát triển trên thế giới vẫn dựa vào nguồn nước mặt
chưa qua xử lý làm nguồn cung cấp nước sinh hoạt cơ bản của họ. Điều này là như
vậy bởi vì có nguồn cung cấp nước uống không ngừng hoặc hệ thống cấp nước không
đủ. Vấn đề này càng trầm trọng hơn ở các vùng nông thôn. Nguồn nước mặt ngày
càng bị căng thẳng quá mức do gia tăng dân số và quá trình công nghiệp hóa. Khả
năng tiếp cận dễ dàng của nước mặt khiến chúng trở thành lựa chọn tốt nhất để
xả nước thải. Nước thải bao gồm một số vi sinh vật, kim loại nặng, chất dinh
dưỡng, hạt nhân phóng xạ, dược phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân đều tìm
đường đến nguồn nước mặt, gây ra những thiệt hại không thể phục hồi cho hệ sinh
thái thủy sinh và con người vì giá trị thẩm mỹ của nước đó bị tổn hại. Các chất
ô nhiễm này làm giảm nguồn cung cấp nước có thể sử dụng, tăng chi phí lọc nước,
gây ô nhiễm nguồn thủy sản và ảnh hưởng đến nguồn cung cấp thực phẩm. Ô nhiễm
kết hợp với nhu cầu về nước của con người ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, hoạt
động của hệ sinh thái và các dịch vụ tự nhiên của hệ thống thủy sinh mà xã hội
phụ thuộc vào.
Các khu vực đô thị ở hầu hết các nước đang phát triển đều có một
số hệ thống quản lý nước thải, một số hệ thống rất hiệu quả và đáp ứng các tiêu
chuẩn quốc tế, nhưng nhiều khu vực khác lại gặp khó khăn với thiết kế kém, vấn
đề bảo trì và mở rộng bao gồm đầu tư kém vào hệ thống quản lý nước thải. Hầu
hết các cộng đồng nông thôn và nghèo thường không có bất kỳ hình thức hệ thống
quản lý nước thải nào. Nước thải từ các ngành công nghiệp quy mô lớn và nhỏ
thường được dẫn đến các dòng nước mặt, thường gây ô nhiễm, mất đa dạng sinh học
trong hệ sinh thái thủy sinh và có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe con người.
Các quy định pháp luật về chất lượng môi trường và chống ô nhiễm là những biện pháp can thiệp được sử dụng rộng rãi nhất để kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Ở hầu hết các quốc gia, luật môi trường đã được chính phủ ban hành và thực thi thông qua các cơ cấu hành chính của mình. Việc sử dụng các chế tài hình sự cũng đã hạn chế được tình trạng ô nhiễm nhưng việc thực thi các luật môi trường này vẫn còn nhiều bất cập. Việc thực thi luật môi trường ở Việt Nam giống như các nước đang phát triển khác đều gặp phải những trở ngại lớn do không đủ chuyên gia kỹ thuật, không đủ kinh phí, tham nhũng và hiệu quả răn đe thấp của các biện pháp trừng phạt.
Nhận xét
Đăng nhận xét